Thứ Tư, 23 tháng 12, 2009

Trang phục truyền thống của người phụ nữ Lự

Người phụ nữ Lự trong trang phục truyền thống

Dân tộc Lự ở Việt Nam có 4.964 người, cư trú chủ yếu ở 2 huyện Phong Thổ và Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Người Lự có truyền thống trồng bông, nuôi tằm kéo sợi dệt vải phục vụ nhu cầu may mặc của cộng đồng. Trang phục của phụ nữ Lự gồm có: khăn đội đầu, áo, váy, thắt lưng.

Khăn đội đầu bằng vải bông nhuộm chàm đen dài khoảng 410 cm, rộng 30 cm, hai đầu khăn có tua dài khoảng 20cm.Trên nền đen của hai đầu khăn dệt xen kẽ 18 đường chỉ trắng to nhỏ khác nhau và hai đường chỉ vàng chạy ngang tô điểm cho khăn. Khi sử dụng, khăn được gấp bốn theo chiều dọc và được quấn quanh đầu nhiều vòng búi nghiêng về phía bên trái đầu.
Áo may bằng vải chàm đen, áo tứ thân, ghép liên kết với nhau từ 6 miếng vải cắt theo hình rẻ quạt, tạo cho áo có vạt xòe rộng so với eo. Hoa văn dệt kết hợp với hoa văn ghép vải. Cổ áo liền với nẹp ngực gồm 5 miếng vải khâu cầu kỳ các màu nhau tạo thành. Miếng vải ở giữa được đáp những quả hình trám màu xanh đỏ nối tiếp nhau.
Tay áo dài, được may thon dần về phía cổ tay viền một vòng vải hoa nhỏ, sát nách có thêu hoa văn chạy vòng quanh ống tay. Trên thân áo bên trái thêu một đường chỉ nhỏ hình gióng trúc chạy từ cổ thẳng xuống vạt áo bằng chỉ các màu.

Vòng quanh eo áo từ phía trước ra phía sau là hoa văn ghép vải, đồng bào gọi đó là "con suối uốn lượn". Dưới hoa văn ghép vải là những hình tam giác thêu bằng chỉ các màu. Hai bên vạt áo được đính hai dây vải hoa, dải dây bên sườn phải có năm tua bằng sợi len các màu có xâu những hạt cườm. Khi mặc, người ta vắt chéo thân bên trái sang phía sườn phải và buộc hai dây vải với nhau, dây được buông thõng tới gần đầu gối, khi bước đi hai dải dây nhún nhảy đung đưa tạo sự uyển chuyển mềm mại của người phụ nữ.

Hàng ngày phụ nữ Lự thường mặc từ hai đến ba chiếc váy cùng một lúc. Chúng được lồng vào nhau thành nhiều tầng, mỗi chiếc cách nhau từ 3-4 cm theo chiều cao dần. Đồng bào quan niệm mặc như vậy vừa kín đáo vừa đẹp, vừa có thể thay đổi cho nhau khi chiếc váy ngoài đã cũ. Váy được tạo bởi ba miếng vải khác nhau, hình ống và chia làm ba phần gồm cạp, thân và chân váy. Cạp váy bằng vải bông nhuộm nâu, không trang trí hoa văn. Thân váy bằng vải tơ tằm được dệt trên một khung cửi riêng, kỹ thuật dệt phức tạo và đòi hỏi sự khéo léo của người dệt để tạo thành những hoa văn theo ý thích của từng người. Thân cải hoa văn thành hai phần rõ rệt. Nửa thân tiếp giáp với cạp váy bằng vải tơ tằm màu nâu sạm, trên có dệt xen nhiều sọc màu vàng và đỏ chạy song song theo chiều ngang của váy.

Nửa thân sau giáp với chân váy bằng vải tơ tằm có dệt hoa văn, thêm vào đó là những phần thêu bằng len. Hoa văn nổi bật ở thân váy quả trám cao 10 cm, xen kẽ giữa hai quả trám là hình hai người quay ngược đầu vào nhau tay dang ra hai bên. Chân váy bằng vải bông nhuộm đen, gấu váy viền bằng vải hoa rộng 1cm. ở khoảng giữa có khâu nối 9 ô vải hoa các màu theo chiều dọc từ thân váy xuống gấu váy, kết thúc là hoa văn các hình tam giác xanh và đỏ xen kẽ nhau nhằm giúp váy thêm nổi bật. Thắt lưng bằng vải mộc trắng, hai đầu thêu hoa văn 6 đường chạy ngang, đường thứ 4 được thêu cầu kỳ hơn và ở đuôi thắt lưng để nhiều tua sợi, khi thắt họ gấp đôi khổ vải, buộc sang bên cạnh sườn bên trái, để thõng hai đầu dây cho mềm mại. Vòng cổ được làm bằng bạc (ngày nay bạc hiếm họ chuyển sang làm bằng nhôm) vòng hình tròn, hai đầu vòng uốn gập ngược lại tạo ra hai lá hình tam giác, trên mặt lá có chạm khắc hoa dây mềm mại.Trang phục của phụ nữ Lự là nét đẹp văn hóa độc đáo trong 54 dân tộc Việt Nam nó đóng góp vai trò to lớn trong kho tàng văn hoá dân tộc, là niềm tự hào dân tộc, là đặc trưng văn hóa cần được bảo tồn và giữ gìn phát huy.

(Cinet-Tổng hợp)

Hoa văn trên trang phục của người Tày


Trang phục cô gái Tày

Trang Phục của người Tày đơn giản một sắc chàm, nét đặc sắc thể hiện ở những mẫu hoa văn trên vải của họ. Loại vải dệt hoa văn mầu đen trên nền vải trắng là loại vải để may mặt chăn, loại hình trang trí này phổ biến trong các dân tộc nói ngôn ngữ Tày-Thái, mà người ta còn dùng một thuật ngữ để gọi đồ án trang trí hoa văn như thế này là lái ăm - có nghĩa là vằn đồ đan, giống như các vằn nổi trên đồ đan. Họa tiết được kỷ hà hóa là chính để thích hợp với việc dệt trên khung dệt. Bố cục họa tiết theo phương pháp ô quả trám có các đường viền xung quanh tạo thành các đường diềm gãy khác. Trong các ô quả trám là họa tiết cách điệu hóa hình họa, hình ngọn rau bầu, bí, là loại cây có liên quan nhiều đến nền văn hóa cổ, tín ngưỡng cổ của nhiều cư dân nông nghiệp ở phía Bắc nước ta, trong đó có người Tày. Các dân tộc Thái, Lào, Lự ở nước ta phát triển loại hình trang trí này rất đa dạng, phong phú.

Trên cơ sở của loại bố cục hoa văn một mầu đen trên nền trắng như thế này, người Tày lại phát triển trang trí theo một hướng khác, gài mầu vào từng đoạn họa tiết, từng mảng họa tiết tùy trình độ thẩm mỹ, ý thích của người dệt trên khung dệt thủ công, có tên gọi là thổ cẩm, mang ý nghĩa là một loại gấm của địa phương.

Thổ cẩm có loại hình vuông để may mặt địu, có thể thức bố cục hoa văn đăng đối tuyệt đối, bao gồm những diềm và hoa văn bỏ ô ở khu vực trung tâm trang trí. Ngoài ô quả trám đã xuất hiện các biến thể như ô hình tám cạnh, hình vuông, hình chữ nhật, tạo cho đồ án trang trí có đường nét cấu tạo phong phú hơn, đa dạng hơn.

Có loại thổ cẩm bố cục hình chữ nhật để làm mặt chăn, màn che. Những tấm màn che mà vị trí là ở các nơi thờ cúng tổ tiên, người ta thể hiện các đề tài liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo, như thêm đường diềm ở phía trên - tương ứng với cõi Trời, có hình các vị thần linh, bảo hộ cho sự sống bình an của con người hoặc thêm đường diềm ở phía dưới - tương ứng với cõi Đất, có hình con ngựa, con chim là những hình tượng biểu trưng cho cuộc sống, cỏ cây, muông thú trên mặt đất như quan niệm về vũ trụ của dân gian. Ngoài ra, còn có nhiều họa tiết khác nữa, như các chữ Hán-theo kiểu chữ triện, hồi văn phật giáo-chữ Vạn, Hoa đào, Hoa cúc cách điệu, hình mặt trời, ngôi sao tám cánh v.v.

Mầu sắc rực rỡ, sự phối hợp các màu nguyên sắc có độ tương phản cao bên nhau khá mạnh bạo. Có những hòa sắc trầm, dịu, hoặc sáng tươi, các sắc thái khác nhau cho thấy thổ cẩm Tày không gò bó trong quy thức hòa màu hạn chế nào, cho thấy sức sáng tạo phong phú và đa dạng của nghệ nhân nhiều thế hệ, đó cũng là những dấu ấn của sự phát triển trong trang trí dệt dân gian của người Tày để đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống ngày một đa dạng phong phú, về các mặt văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc.

Bố cục hình vuông của thổ cẩm, bố cục hình chữ nhật của loại thổ cẩm làm mặt chăn hoặc màn che có quy định phía trên phía dưới - là những bố cục riêng có trong trang trí dệt của người Tày, mà các dân tộc anh em không có.

(Cinet-Tổng hợp)

Trang phục truyền thống của người Bố Y


Trang phục của người Bố Y

Dân tộc Bố Y ở Việt Nam là một trong những dân tộc có số dân ít nhất trong nhóm Tày Thái. Bố Y chia làm hai nhóm có tên gọi chung: nhóm ở Quảng Bạ (Hà Giang) có tên gọi là Bố Y, nhóm cư trú ở Lào Cai mang tên là Tu Di.

Trang phục nam: Nam giới thường mặc áo cổ viền, loại áo cánh ngắn, tứ thân; quần lá tọa màu chàm bằng vải tự dệt.

Trang phục phụ nữ dân tộc Bố Y trong khoảng một thế kỷ gần đây có nhiều biến đổi về kiểu dáng, chất liệu, cách mặc… Bộ y phục cổ truyền của phụ nữ Bố Y ở Tam Đường, Phong Thổ, Lai Châu gồm: khăn đội đầu, áo trong, áo ngoài, váy to, váy nhỏ, tạp dề.

Khăn đội đầu (ba can) bằng vải nhuộm chàm, là loại khăn dài 300cm, chiều rộng 35cm. Hai đầu khăn được khâu vắt mép bằng chỉ màu ghi, cạnh mép khăn dùng chỉ màu khâu thưa để đường chỉ nổi rõ có tính chất trang trí cho khăn. Khi dùng, gập đôi khăn theo chiều dọc rồi quấn xung quanh đầu, đuôi khăn ngoài cũng có thể giắt hoặc buông.

Áo trong (pủ đy) là loại áo kiểu tứ thân mở ngực, có một chiếc cúc đồng cài giáp cổ. Hai vạt áo trước có hai túi nhỏ cân xứng nhau để đựng tiền và đồ. Cổ áo liền với nẹp ngực được đáp bằng vải chàm xanh, cổ tay áo đáp khoanh vải màu xanh rộng 10 cm, hai đầu khoanh vải xanh viền một đường vải trắng 1 cm. Áo trong (pủ đý) được coi là loại áo lâu đời nhất trong bộ y phục cổ truyền của phụ nữ Bố Y. Hiện nay áo “pủ đý” không sử dụng mà cất kỹ trong hòm, khi chủ nhân quá cố mặc sang thế giới bên kia.

Áo ngoài (pủ pấp) bằng vải thô nhuộm chàm dài 60 cm, rộng 55 cm (tùy người cụ thể có kích thước khác nhau). Áo may kiểu tứ thân không có cúc cài, chỉ có một đôi dây vải, một chiếc đính phía dưới vạt áo trái, một chiếc đính nơi xẻ tà nách bên phải, khi mặc áo chúng được buộc lại với nhau.

Cổ áo (vừa pủ) liền với nẹp ngực, được khâu táp hai miếng vải màu xanh nhạt, nẹp áo trước ngực bằng vải đỏ. Trên nẹp vải đỏ thêu hoa văn, đồng bào gọi là con rồng (lùng). Nẹp áo trước ngực bằng vải xanh lơ trên thêu hoa văn hình răng cưa (vùa lùng). Tay áo liền với thân, ống tay rộng, có nẹp vải trắng bên trong, bên ngoài dùng vải màu khâu xa mũi tạo thành ba chấm liên tiếp để trang trí.

Váy to (vấn lậu) hay còn gọi là váy dài, váy bằng vải thô nhuộm chàm dài 85 cm, cạp váy rộng 35 cm, là loại váy mở khép mí, gồm ba phần cạp váy, thân váy, gấu váy. Cạp váy (roi vấn) bằng vải thô màu trắng, hai cạnh cạp có đính hai dây vải để buộc. Thân váy được gấp nếp mới đính vào cạp váy có độ xòe khá lớn. Gấu váy (pấn vấn) là mảnh vải được dệt bằng chỉ màu xanh, đỏ, tím, ghi, tạo thành những đường kẻ nhỏ khâu ghép vào thân váy, gấu váy cũng được gấp nếp như thân váy. Váy to dùng che trước bụng, loại váy này trước kia dùng trong các dịp lễ tết, hội hè, cưới xin. Hiện nay không dùng nữa, nó được cất kỹ để mặc vào lúc quá cố.

Váy nhỏ (vấn biên) bằng vải thô nhuộm chàm dài khoảng 50 cm, cạp váy rộng 30cm, gồm ba phần cạp váy, thân váy, gấu váy. Cạp váy (roi vấn) bằng vải thô nhuộm chàm màu xanh, hai cạnh cạp váy đính hai dây vải để buộc khi mặc. Thân váy (coóng vấn) được cấu tạo khác váy to. Phía giáp cạnh váy là một miếng vải chàm gấp nếp nhỏ sít vào nhau theo chiều dài của váy. Tiếp đến là mảnh vải sợi màu đỏ đồng bào gọi là "tục vấn", nằm giữa váy và cũng được gấp nếp theo chiều dài của váy. Dưới "tục vấn" là dải vải thô nhuộm chàm cũng được gấp nếp theo chiều dài của váy. Gấu váy (pấp vấn) liền với thân váy được khâu viền ở phía trong. Cách mặc váy truyền thống của phụ nữ Bố Y: trước hết đặt váy to vào giữa bụng và buộc dây sau lưng, sau đó đặt váy nhỏ vào giữa lưng và buộc dây trước bụng. Bộ váy truyền thống của phụ nữ Bố Y thực chất là hai mảnh vải xếp nếp khép lại, khi mặc tạo kẽ hở (váy hở) ở hai bên hông để đi lại dễ dàng.

Tạp dề (vẩy dao) bằng vải thô nhuộm chàm dài khoảng 115cm, rộng 80cm. Tạp dề được đeo ngoài áo và váy trong những dịp lễ tết, hội hè, cưới xin gồm hai phần: yếm che và dây đeo. Yếm che bằng vải chàm, giữa yếm có thêu họa tiết hoa văn hình con cua cách điệu. Dây đeo bằng vải chàm được đính hai bên cạnh nhỏ của tạp dề. Khi dùng buộc vòng qua cổ. Dây buộc sau lưng được đính trên hai cạnh to của tạp dề, khi dùng buộc thắt sau lưng.

Trang phục của phụ nữ Bố Y là nét văn hóa độc đáo trong 54 dân tộc Việt Nam. Trang phục tộc người đóng góp vai trò to lớn trong kho tàng văn hóa dân tộc, là niềm tự hào dân tộc, là đặc trưng văn hóa của mỗi tộc người cần được bảo tồn và gìn giữ phát huy theo tinh thần Nghị quyết V khóa VIII của Trung ương Đảng trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Lễ cơm mới của người Mông ở Suối Giàng, Yên Bái


Suối Giàng - địa danh nổi tiếng với đặc sản chè tuyết shan cổ thụ là xã vùng cao thuộc huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Ðây cũng là nơi được người Mông chọn làm nơi sinh cơ lập nghiệp trong cuộc hành trình đi tìm vùng đất mới.


Nhờ có cây chè tuyết shan mà đời sống của đồng bào ngày càng khá giả. Các thành viên họ Giàng thường tổ chức lễ cúng dòng họ trên một đỉnh núi cao nhằm cảm ơn thần linh phù trợ cho họ và cầu xin thần thổ địa, tổ tiên nơi ở cũ chứng giám phù hộ cho con cháu ở nơi này có được cuộc sống no đủ hơn. Cái tên Suối Giàng đã được ghép bởi tên dòng suối và tên dòng họ người Mông đầu tiên có công khai phá mảnh đất này.

Mùa thu, khi những vạt lúa nương chuyển sang đỏ đuôi, báo hiệu mùa thu hoạch đã tới, là thời gian các gia đình trong bản chuẩn bị tổ chức lễ mừng cơm mới tiếng Mông gọi là Nào màu xaz. Ðây là lễ thức cúng tế nhằm cảm ơn trời đất cho mưa thuận gió hòa, tránh được dịch bệnh, gia đình có được vụ mùa bội thu, cả năm no đủ, mọi người khỏe mạnh...

Việc chọn ngày tổ chức lễ cơm mới đối với người Mông ở Suối Giàng không mang ý nghĩa tín ngưỡng, nó phụ thuộc vào lúa chín ở mảnh nương của gia đình, cũng như thời tiết đẹp thuận tiện cho việc đi nương lấy lúa mới về làm lễ và anh em về vui dự lễ.

Gia đình ông Giàng A Tếnh ở bản Pang Cáng xã Suối Giàng, huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái hôm nay rộn rịp khác thường, bởi gia đình ông đang chuẩn bị tổ chức lễ cơm mới. Những người anh em bà con trong bản cũng đến phụ giúp gia đình tổ chức lễ mừng cơm mới, người lo lên nương gặt lúa kịp mang về chế biến lấy gạo nấu cơm để làm lý, người lo phụ giúp công việc bếp núc, người lo tiếp đón khách. Tại gian thờ của nhà chủ lễ các con vật hiến tế lần lượt được giết thịt, việc này nhất thiết phải được làm tại đây để cho các ma chứng kiến, bởi trong nhà đây là không gian thiêng nơi bày biện đồ cúng và làm lễ hiến tế trong các dịp lễ, Tết của gia đình, dòng họ cũng như các hoạt động lễ nghi tôn giáo khác. Lúc này, gia chủ cùng một số bà con họ hàng chuẩn bị các dụng cụ cắt lúa như dao cắt lúa, lù cởi... để đi lên nương cắt những bông lúa đầu tiên về làm lễ cơm mới.

Kết thúc công việc cắt lúa trên nương, bà chủ nhà là người gùi những cum lúa đó về nhà được đặt tại chân cột chính gian giữa nhà. Người Mông quan niệm rằng, làm như vậy để báo với thần cột nhà biết về những công việc của gia chủ đã làm và xin ma cột nhà hãy gìn giữ, bảo vệ hồn lúa mới.

Lúa cắt về được tách hạt ra khỏi bông để chế biến thành gạo. Thóc được sàng sẩy sạch rồi mang đi rang lên trước khi giã. Rang lúa là một công việc đòi hỏi phải có kinh nghiệm, lúa được đảo đều tay, lửa vừa phải, đến độ khô nhất định sao cho khi mang đi giã thành gạo, hạt không bị nát, cơm chín có mùi thơm của gạo mới.

Cùng lúc đó những người đàn ông bận rộn với công việc chuẩn bị cho lễ cúng tổ tiên, ma cột nhà, ma cửa nhà, ma bếp. Chủ lễ ngồi trước mâm cúng tiến hành các nghi thức cúng lễ truyền thống của người Mông. Kết thúc lễ cúng tại ban thờ Xử cang, mâm cúng thổ thần, thổ địa tại sân trước cửa chính của gia chủ được dọn ra với lễ vật đơn giản gồm một thìa cơm cùng một miếng thịt.

Sau đó, mâm cơm khách được dọn ra, mọi người ăn uống vui vẻ bên mâm cơm cùng gia chủ. Vị trí ngồi ăn ở từng mâm cũng được quy định rõ ràng. Thầy cúng, chủ nhà cùng các cụ cao tuổi ngồi ăn các món của mâm cơm cúng tại bàn thờ; khách quý được ngồi ăn tại mâm cơm cúng ngoài trời, các mâm tiếp theo được dành để mời anh em họ hàng, bà con trong bản. Ðiều đặc biệt ở đây xôi và cơm được nấu từ gạo mới để chuẩn bị cho lễ cúng khi ăn nếu nhà ai chưa làm lễ mừng cơm mới thì xin phép gia chủ chỉ ăn cơm nấu từ gạo cũ của năm trước, bởi họ quan niệm rằng không bao giờ được phép ăn cơm mới của nhà khác trước khi nhà mình làm lễ cúng cơm mới. Họ tin rằng nếu ăn cơm mới của gia đình khác thì gia đình mình năm sau sẽ mất mùa.

Xem chân gà là một nghi thức quan trọng trong lễ ăn cơm mới người Mông ở Suối Giàng. Họ cho rằng việc xem chân gà trong lễ mừng cơm mới sẽ dự đoán được vụ mùa trong năm mới của gia chủ.

Kết thúc buổi lễ khách và chủ cùng nâng những chén rượu nồng ấm tình cảm anh em họ hàng, tình cảm láng giềng bà con thôn, bản.

Bí mật của trống cổ hơgơr

Hơgơr theo tiếng Bana có nghĩa "trống sấm", được tộc người dùng xua đuổi tà khí trong các cuộc vui và nghi lễ cúng tế quan trọng như cầu mùa, cúng tạ Yàng… Trong khí trời se lạnh giữa đại ngàn hoang sơ, bên bếp lửa tí tách, còn gì bằng khi được chìm đắm trong men rượu lúa rẫy thơm nồng và nghe các già làng trò chuyện về chiếc trống cổ ẩn chứa nhiều điều kỳ thú.

"Phát âm thanh Yàng vui - quỷ sợ!"

Đó là tâm tình của nghệ nhân Aly ở thôn Kol Tum Kơpơiy (phường Thắng Lợi, thị xã Kon Tum). Chỉ vào chiếc trống được ràng bằng dây mây, mặt trống được phủ lớp da thú tua tủa lông vàng trông hơi quái dị, Aly cho biết: "Tên đầy đủ của trống là hơgơr hơkrăn. Vì lớn nhất trong các loại trống nên đồng bào thường gọi nó là trống cái".

Theo các nghệ nhân Bana, trống cái hơgơr luôn được sử dụng song hành cùng bộ chiêng arap (gồm 11 chiếc) - bộ chiêng được sử dụng rộng rãi nhất trong đời sống văn hóa tâm linh của tộc người.

Nghệ nhân Aly giải thích: "Arap nghĩa là chiêng múa, có âm thanh ngân vang. Tiếng trống hơgơr ngược lại luôn trầm ấm. Tuy nghịch âm nhưng khi được phối với nhau chiêng trống sẽ cho ra những bài bản lay động núi rừng. Trong dàn nhạc, bao giờ hơgơr cũng được đánh chính để giữ nhịp".

Qua nhịp gõ điêu luyện của các nghệ nhân, âm vực khi dịu dàng lúc mạnh mẽ, uy lực của hơgơr cứ thế vọng vang qua nhiều con sông con suối, qua nhiều ngọn núi, buôn làng. "Luật tục ông bà qui định, vì là trống cái (trống lớn - trống thiêng) nên không ai được để hơgơr dưới đất mà phải luôn treo trên cột nhà chính. Ngày trước chỉ có người uy tín nhất làng mới được đánh hơgơr. Trống này đặc biệt ở chỗ cả hai người có thể cùng đánh ở hai mặt" - nghệ nhân Ksor Hnao ở làng Kép (phường Thống Nhất, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai), bật mí.

Khi được khơi lên từ nhịp vỗ của những chàng Đam San hừng hực sức sống, tiếng chiêng arap cùng tiếng trống hơgơr phát ra hợp âm khi như tiếng suối chảy róc rách, lúc như tiếng gầm thét của sấm sét vào mùa thần nước khóc và khi ai oán như nỗi đau của những đôi tình nhân bị chia lìa... Âm thanh ma mị đó được nghệ nhân Aly đúc kết bằng nhận định: "Lễ cúng cầu mưa, lễ đâm trâu, lễ mừng lúa mới, lễ bỏ mả… không thể thiếu tiếng trống hơgơr. Tiếng trống là cầu nối giữa buôn làng với thánh thần. Tiếng trống làm Yàng vui, khiến ma quỷ hoảng sợ không dám đeo bám, làm hại mọi người".

Tuyệt kỹ giữa đại ngàn

Tìm hiểu về chiếc trống "Yàng vui - quỷ sợ", thật bất ngờ trước kỹ thuật chế tác công phu, đòi hỏi nghệ nhân phải có tay nghề điêu luyện và mất nhiều công sức. Nghệ nhân Aly nói: "Người làm được hơgơr phải là người biết sử dụng nó. Ai gõ hay, lâu năm sẽ làm ra cái hơgơr tốt. Nghĩa là để càng lâu thì cái âm càng trầm ấm và vang rất xa".

Năm nay tuổi ngoài 50, Aly cho biết, chiếc trống mà anh đang sử dụng "Có tuổi đời hơn tuổi mình. Sau khi ông già mất thì mình sử dụng nó". Để làm trống, hồi còn là thanh niên, cha Aly vào rừng sâu tìm cây gỗ trắc thối đốn hạ, cắt khúc rồi kỳ công khoét lõi.

"Sau đó ông già tiếp tục vào rừng săn con mang nhiều tuổi lột da đem ngâm trong nước nhiều ngày rồi bịt lên hai đầu. Tang trống thì ông già dùng dây mây rừng lâu năm quấn chặt".

Những năm sau này, do rừng trắc đại thụ và loài mang bị phường sơn tặc đốn hạ, bắn giết bừa bãi nên nghệ nhân làm trống hơgơr phải sử dụng cây gỗ tạp, da trâu chưa đủ tuổi nên âm thanh và độ bền của trống không được tốt. Aly lắc đầu: "Những cái trống hơgơr đó để lâu không những không hay mà còn dễ hư hại".

Sau cuộc gặp gỡ với nghệ nhân Aly, chúng tôi có chuyến du khảo đến huyện Lắk và tình cờ được KSiêng, con trai một nghệ nhân nay đã là người thiên cổ, bật mí tuyệt kỹ làm trống hơgơr gần như bí truyền. Sau công đoạn "đốn cây cổ thụ moi lõi", thay vì khứa vành quanh hai đầu miệng trống để tạo độ lõm ràng da thì "người xưa" dùng mật ong thoa quanh chờ mối ăn, đến khi thấy được thì giũ sạch. Với kỹ thuật này, da trống không cần phải là da mang mà dùng da trâu. Mặt trên da trâu đực, mặt dưới da trâu cái.

Chỉ vào chiếc trống hơgơr đang được một thanh niên gõ thùng thùng trước nhà rông, KSiêng trĩu giọng: "Cái trống này làm vụng lắm. Do không xử lý đúng kỹ thuật (da trâu chưa đủ tuổi, căng chưa đủ độ, gỗ không tốt…) nên âm thanh nó cứ đùng đùng chứ không "âm mà vang" như chiếc trống gia bảo của gia đình mình bị hỏng cách đây 7 năm do sút dây rớt xuống sàn nhà". - KSiêng tặc lưỡi: "Âm thanh của cái trống hơgơr xưa và bây giờ khác nhau lắm!".

- Làm thế nào để nhận biết đâu là trống hơgơr xưa và nay?

- Dễ thôi mà! Sau này người ta dùng đinh sắt đóng trống. Ngày trước thì dùng đinh tre. Đinh tre được làm từ cây tre lâu năm. Để tránh bị mối mọt và tạo độ bền, trước khi đóng trống nó được ngâm lâu ngày trong nước. Sau đó huơ nhiều lần trên ngọn lửa đấy".

Áp dụng chỉ điểm của KSiêng, qua quan sát chiếc trống hơgơr của Aly, tôi nhận thấy những chiếc đinh đóng trống đúng là rất đặc biệt. Mỗi chiếc đinh tre ăn sát lớp da mang có màu ngà, tiết diện to bằng ngón trỏ người lớn.

Hỏi "Làm thế nào để dùng tre làm đinh đóng xuyên qua lớp da mang, xuyên qua lớp gỗ cứng như thạch?" thì những nghệ nhân hậu bối như Aly, KSiêng, Ksor Hnao… lắc đầu. Kỹ thuật đó đến nay với họ vẫn là bí mật


Độc đáo trang phục các dân tộc Yên Bái

Các dân tộc ở Yên Bái sống xen kẽ, quần tụ ở khắp các địa phương trên địa bàn của tỉnh với những bản sắc văn hóa phong phú đặc sắc. Tất cả đã hòa quyện để tạo nên vốn văn hóa quý giá trong kho tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam.

Một trong những sắc thái độc đáo tạo nên những nét riêng cho mỗi dân tộc chính là bộ trang phục truyền thống. Trang phục các dân tộc là một nét văn hóa đẹp, chúng không chỉ đặc trưng cho mỗi dân tộc mà còn nói lên phong tục, cách sống… của tộc người đó.

Trang phục truyền thống của mỗi dân tộc có kiểu dáng và cách trang trí hoa văn không giống nhau. Nếu như trang phục của người Cao Lan, người Tày và người Nùng đơn giản, không cầu kỳ về kiểu dáng và màu sắc thì trang phục truyền thống của đồng bào Mông, Dao, Thái lại khá phong phú về hoa văn và mềm mại về kiểu dáng. Tuy có sự khác nhau về cách bài trí nhưng trang phục của các dân tộc đều được thiết kế tiện cho việc đi lại và thuận lợi cho lao động hàng ngày. Cùng với những bộ váy áo do đôi bàn tay khéo léo và tâm hồn thẩm mỹ của các thiếu nữ tạo ra thì những bộ trang sức như các loại vòng cổ, vòng tay bằng bạc là không thể thiếu được trong trang phục của người dân tộc.

Trong các dân tộc sinh sống ở Yên Bái, dân tộc Dao là dân tộc chiếm số đông (tới 9,1% dân số của toàn tỉnh), gồm có 4 nhóm chính là Dao đỏ, Dao quần chẹt, Dao trắng và Dao tuyển. Để phân biệt giữa các nhóm người Dao, người ta chủ yếu dựa vào sự khác nhau trong trang phục người phụ nữ. Tuy có khác nhau về một số chi tiết nhưng tựu chung lại, người Dao thường sử dụng các màu đỏ, đen và trắng để tạo ấn tượng mạnh mẽ, cùng với đó là sự trang trí các họa tiết phong phú như hình cây thông, hình cỏ cây, hoa lá, muông thú. Chất liệu vải để may trang phục được dùng bằng vải lanh nhuộm chàm. Theo phong tục của người Dao thì trong bộ y phục, quan trọng nhất là chiếc áo dài có màu chàm hoặc màu đen. Bên trong chiếc áo dài, phụ nữ Dao còn mặc một chiếc áo “lui ton” giống như cái yếm, mặc bên trong che kín cả ngực, cổ tròn mở sau gáy. Một trong những thứ tạo nên nét độc đáo cho bộ y phục Dao không thể không kể đến khăn đội đầu và các đồ trang sức bằng bạc.

Với lối dùng màu chàm phổ biến, trang phục của dân tộc Tày mang dáng vẻ đằm thắm rất đặc trưng. Trang phục của phụ nữ dân tộc Tày thường rất ít hoặc không trang trí hoa văn thêu thùa. Áo dài là loại áo 4 thân, gài khuy áo một bên cạnh sườn. Đi cùng với áo, phụ nữ Tày thường mặc quần dài hoặc váy rộng màu đen, dây lưng dài quấn quanh eo từ 2 đến 3 vòng. Khăn phụ nữ Tày cũng là loại khăn vuông màu chàm có thêm dải hoa văn, khi đội vấn ngang đầu, ôm gọn mái tóc vừa tạo sự duyên dáng cho người mặc, vừa gọn gàng, thuận tiện trong các hoạt động lao động sản xuất. Trang phục của người Tày tuy đơn giản song ẩn sâu trong đó là sự giản dị, duyên dáng, đằm thắm của người phụ nữ dân tộc Tày.

Bộ trang phục của dân tộc Cao Lan gồm áo và váy lại có độ trầm hơn bởi sự phối màu và sự kết hợp độc đáo từ nhiều mảnh ghép của màu đen và màu nâu đỏ trong chiếc áo dài. Áo được may với cổ đứng ngắn, cài khuy bên nách phải, có xẻ tà dài. Váy được nhuộm chàm và có độ rộng, tạo thuận lợi cho việc đi lại và lao động của phụ nữ Cao Lan. Cùng với váy và áo, phụ nữ Cao Lan quấn xà cạp ở chân và dùng đồ trang sức vòng cổ, vòng tay bằng bạc.

Không trang trí hoa văn rực rỡ, phụ nữ dân tộc Nùng mặc áo 4 thân màu chàm, may rộng cả phần thân và tay áo. Điểm khác biệt rõ nét nhất để phân biệt dân tộc Nùng với dân tộc Tày và Cao Lan là cách đội khăn và cách trang trí màu sắc và hoa văn trên từng chiếc khăn đội đầu. Trang sức cơ bản của người Nùng là vòng bạc và dây xà tích, đây là vật trang trí quan trọng làm nổi bật bộ trang phục của phụ nữ dân tộc Nùng.

Dẫu không giống nhau về kiểu cách, hoa văn trong trang phục của các dân tộc Yên Bái nhưng đều toát lên sự chắt chiu những tinh hoa văn hoá trong cộng đồng để tạo nên nét độc đáo riêng có trong mỗi trang phục.

Bắn nỏ, môn thể thao tiêu biểu cho tinh thần thượng võ của đồng bào dân tộc thiểu số


Trong các ngày hội của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, bên cạnh những trò chơi như tung còn, kéo co, đẩy gậy thì bắn nỏ là một môn thể thao nhiều tính hấp dẫn.


Nỏ là một dụng cụ làm bằng gỗ, mũi tên làm bằng tre hoặc bằng sắt, đồng bào các dân tộc thường đeo nỏ mỗi khi đi rừng để săn thú, do đó các cụ già, thanh thiếu niên đồng bào dân tộc thiểu số rất thạo bắn nỏ.

Những người tham gia thi bắn nỏ thường chuẩn bị rất kỹ từ sau Tết Nguyên đán. Họ căng dây nỏ, vót tên và tập các động tác bắn cho thật thuần thục. Tham gia thi bắn nỏ thường là những thợ săn có tiếng, là những thiện xạ dùng nỏ săn bắn chim thú cho gia đình. Một số tay nỏ là những thanh niên khỏe mạnh, ham thích môn bắn nỏ nhằm tập luyện sức khỏe và bảo tồn môn thể thao truyền thống.

Hội thi bắn nỏ thường được tổ chức trên một bãi đất rộng. Người thi có nỏ riêng để quen với tay nỏ mà bắn trúng đích. Trước khi thi người bắn có thể thử để chọn tư thế, thử nỏ theo kinh nghiệm riêng của mình…Khác với bắn súng, bắn nỏ khi báo kết quả sẽ căn cứ trên những mũi tên trúng đích đã cắm vào bia, còn tên trượt sẽ bay ra ngoài. Người thắng cuộc là người có nhiều tên bắn trúng đích nhất.

Bắn nỏ là trò chơi tiêu biểu cho truyền thống thượng võ của các dân tộc thiểu số Thái Nguyên. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có rất nhiều thanh niên nam nữ ham thích và biết bắn nỏ. Vì vậy trong hội thi thể thao các dân tộc, môn bắn nỏ được đưa vào là một môn thi chính thức. Nhờ vậy kỹ năng bắn nỏ của nhân dân các dân tộc Thái Nguyên đã được nâng cao và môn thi này đã đạt nhiều thành tích.